Ngày 5/10/2017, VASEP đã gửi Công văn số 152/2017/CV-VASEP tới Bộ Tài nguyên và Môi trường. Công văn góp ý Dự thảo QCVN 11:2017/BTNMT về nước thải chế biến thủy sản. Tại công văn này, VASEP góp ý hai nội dung chính về “Đối tượng áp dụng” và “Giá trị C. Làm cơ sở tính toán giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm”.
Quy định về nước thải chế biến thủy sản xả vào hệ thống thu gom của nhà máy xử lý nước thải tập trung theo VASEP, khoản 1.2.2 của dự thảo cần được cụ thể như sau: “Nước thải chế biến thủy sản xả vào hệ thống thu gom của nhà máy xử lý nước thải tập trung dựa trên nguyên tắc thỏa thuận giữa doanh nghiệp trong khu công nghiệp/khu chế xuất về quy chuẩn áp dụng và bảo đảm tuân thủ các quy định về luật môi trường”.
Quy định cho phép DN trong KCN và công ty hạ tầng KCN sẽ đàm phán để có cơ chế, phí và điều kiện xả thải phù hợp giữa hai bên. Đảm bảo chính sách khuyến khích của Nhà nước thúc đẩy các Nhà máy di dời vào các KCN. Còn như nội dung dự thảo hiện nay có thể tạo ra sự áp đặt cho DN. Thể hiện sự đối xử chưa công bằng giữa các Nhà máy thủy sản nằm trong KCN và ngoài KCN.
Về “Giá trị C làm cơ sở tính toán giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm”. Trong đó VASEP đề nghị bỏ quy định về chỉ tiêu Phospho. Do một số nước lân cận như Indonesia, Malaysia, Thái Lan không quy định chỉ tiêu này trong nước thải.
Các nội dung chính
Quy định mức Phospho như dự thảo sẽ gây thêm khó khăn cho DN. Giảm sức cạnh tranh hàng thủy sản Việt Nam với các quốc gia XK thủy sản mạnh trong khu vực.
Trong sản xuất, các nhà máy chế biến xuất khẩu thủy sản đều có sử dụng phụ gia Phốt phát. Lượng Phospho trong nước thải tăng lên. Vì vậy khi xử lý thường vượt cao hơn so với yêu cầu 20 – 30 mg/l. Ngay cả với mức quy định hiện nay. Các DN cũng không thể đạt được mức quy định hiện hành. Nếu dự thảo hạ mức quy định xuống thấp hơn (đối với cơ sở mới xây dựng) và giữ nguyên mức (đối với cơ sở đang hoạt động) thì các DN khó có thể đạt được. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam chưa có công nghệ xử lý hiệu quả chỉ tiêu Phospho trong nước thải.
Với thông số Amoni và tổng Nitơ, VASEP đề xuất hai phương án:
Phương án 1: Nới lỏng hai thống số Amoni và tổng Nitơ bằng với hai thống số Amoni và tổng Nitơ mà Thái Lan hoặc Nhật Bản đang áp dụng cho các nhà máy chế biến thủy sản.
Phương án 2: Giữ nguyên mức cho phép của hai thông số Amoni và Tổng Nitơ như trong QCVN 11-MT:2015/BTNMT.
VASEP xem xét dựa trên những lý do sau
Thực trạng hai thông số Amoni và Tổng Nitơ của quy chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT:
Hiện nay, giới hạn của hai thông số Amoni, tổng Nitơ trong QCVN 40:2011/BTNMT cao hơn trên thế giới. Cụ thể là cao hơn Thái Lan, Nhật Bản. Làm cho các trạm xử lý của các KCN gặp khó khăn trong xử lý đạt Amoni và tổng Nitơ. Thực trạng là hầu hết các trạm xử lý nước thải của các KCN có đạt hai thông số này. Nhưng không phải đạt trong mọi thời điểm. Đặc biệt là chỉ tiêu Amoni. Đó là lý do các KCN chần chừ lắp đặt trạm quan trắc tự động dù quy định bắt buộc.
Mặt khác, tổng Nitơ cao hơn các nước khác. Gây khó khăn cho các KCN trong việc xử lý đạt quy chuẩn. Vì các KCN có phí vận hành KCN cao nên một số KCN lấy phí xử lý nước thải cao. Đơn giá xử lý có khi lên 25,000VND/m3. Như vậy làm giảm sức cạnh trạnh của các KCN của nước ta so với các nước khác.
Nước thải đầu vào của các KCN thường có độ ô nhiễm thấp. Nước thải phải được xử lý cấp 1 tại các Nhà máy trong KCN trước khi đấu nối vào HTXL của KCN. Mà còn gặp khó khăn trong việc xử lý đạt thông số Amoni, tổng Nitơ. Nên với các DN thủy sản, đa số là vừa và nhỏ, nguồn nước thải rất giàu Nitơ và Amoni. Việc xử lý Nitơ và Amoni khó khăn và cực kỳ tốn kém.
Thực trạng về doanh nghiệp chế biến thủy sản hiện nay của Việt Nam:
So với các DN Nhật Bản đã hình thành cả thế kỉ. Các DN chế biến thủy sản hiện nay tại Việt Nam mới hình thành hơn 10 năm gần đây. Đa phần là các DN vừa, nhỏ và rất nhỏ. Công nghệ chế biến còn thủ công, bán thủ công, đồng vốn ít ỏi, các nhà máy chiếm đa phần là sơ chế. Lượng nước thải thì không quá lớn mà đòi hỏi đáp ứng quy chuẩn môi trường quá cao (cao hơn nước tiên tiến như Nhật Bản;..). Việc nâng Amoni từ 20mg/l lên 10mg/l và Tổng Nitơ từ 60mg/l lên 40mg/l cần phải xem xét nguồn tiếp nhận (ao hồ, sông hay suối;..). Và cũng phải dựa trên lưu lượng xả thải và các công ty thủy sản lưu lượng xả thải không thể bằng các KCN.
Thực trạng về công nghệ xử lý nước thải của các doanh nghiệp thủy sản:
Công nghệ xử lý Nitơ và Amoni hiện nay chỉ có con đường duy nhất là bằng phương pháp sinh học:
Quá trình chuyển hóa Amoni và Nitơ qua các bước: NH4–> NO3- ; NO3- –> NO2- –>NO –> N2O –> N2.
>>> Xem thêm: Hậu xử lý nước thải – Nguyên nhân và cách khắc phục hiện tượng nước thải màu vàng đục/vàng nhạt.
Công đoạn hóa lý không làm giảm được Amoni. Trong công đoạn hóa lý Nitơ có giảm một phần rất nhỏ (khoảng 5%-7%) và Nitơ giảm là Nitơ dưới dạng vật chất không hòa tan.
Quá trình sinh học thì không thể như hóa học. Nó lệ thuộc vào sự sống và phát triển của hệ vi sinh vật trong hệ thống xử lý nước thải và sinh học luôn có khoảng giao động nhất định cho dù điều kiện dinh dưỡng có lý tưởng (pH, Nhiệt độ, các dinh dưỡng khác;,..). Hệ vi sinh vật trong các bể xử lý sinh học luôn có những trạng thái tạm gọi “khỏe, trung bình, yếu”. Trong bất kỳ hệ thống xử lý nước thải nào và khi ở trạng thái trung bình hoặc yếu thì Amoni không thể đạt 10mg/l và Nitơ không thể đạt 40mg/l.
Điều này là chắc chắn bởi vì nước thải đầu vào của các nhá máy chế biến thủy sản Việt Nam sản xuất sản phẩm tinh chế có:
- Amoni thường từ 50-100mg/l;
- Tổng Nitơ thường từ 200-400mg/l;
Nước thải đầu vào của các nhá máy chế biến thủy sản Việt Nam sản xuất sản phẩm sơ chế có:
- Amoni: 80-120mg/l;
- Tổng Nitơ: 250-500mg/l
Và chưa có hệ thống xử lý sinh học nào cho thấy đạt hiệu quả xử lý Amoni và Nitơ trên 80%.
Các thông số môi trường của Dự thảo Quy chuẩn 11-MT:2017/BTNMT. Đang cao hơn so với thông số môi trường tương đương của Nhật Bản, Thái Lan.
Dự thảo quy chuẩn này nếu được chấp nhận và đưa vào áp dụng. Nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành thủy sản, gây quá nhiều khó khăn không cần thiết. Làm giảm sức cạnh tranh so với các nước lân cận như Thái Lan, Indonesia;…
So sánh hai thông số Tổng Nitơ và Amoni của dự thảo QCVN 11-MT:2017/BTNMT. Và với các quy chuẩn nước thải công nghiệp nước gần Việt Nam.
(So sánh với thông số môi trường tương đương của Nhật Bản, Thái Lan)
Chịu trách nhiệm nội dung
Phó Giám Đốc - Đồng Thị Tú Anh